ThS. Nguyễn Thị Ngọc Huệ - IVFMD Bình Dương
1. Giới thiệu
Đông lạnh phôi trong hỗ trợ sinh sản là kỹ thuật được áp dụng phổ biến nhằm tối đa cơ hội thành công cho bệnh nhân. Tuy nhiên, khi bệnh nhân kết thúc điều trị và không còn nhu cầu sinh thêm em bé, việc xử lý phôi dư thừa còn đông lạnh tại các trung tâm hỗ trợ sinh sản là một trong những thách thức lớn. Các phôi đông lạnh này sẽ được cân nhắc cho các lựa chọn như hiến tặng cho cặp vợ chồng khác, hiến tặng cho nghiên cứu, hủy phôi hoặc tiếp tục gia hạn lưu trữ [1]. Những lựa chọn về hướng xử lý phôi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như tôn giáo, quan điểm, học thức, tâm lý và cả những vấn đề về di truyền, lợi ích của trẻ em nếu phôi được hiến tặng cho các cặp vợ chồng khác. Bài viết này nhằm mục đích tổng hợp quan điểm và sự lựa chọn của bệnh nhân về các hướng xử lý phôi đông lạnh dư thừa sau khi bệnh nhân điều trị thành công, vấn đề liên quan đến tâm lý xã hội của trẻ sinh ra từ phôi hiến tặng. Từ đó giúp ích trong việc tiếp cận và tư vấn cho bệnh nhân về hướng xử lý phôi đông lạnh dư thừa trong tương lai.
2. Các yếu tố liên quan đến việc lựa chọn phương án xử lý phôi đông lạnh dư thừa của bệnh nhân
Năm 2024, Barishansky và cộng sự đã thực hiện khảo sát trên 337 bệnh nhân về hướng xử lý phôi đông lạnh dư thừa của họ. Cuộc khảo sát bao gồm 123 mục với một số câu hỏi mở, các câu hỏi bao gồm thông tin nhân khẩu học của bệnh nhân, tiền sử điều trị vô sinh, xét nghiệm di truyền cho phôi, lý do hiến tặng phôi và kinh nghiệm của bệnh nhân. Sau đó, những người trả lời được hỏi về tình trạng phôi hiện tại của họ là gì (nếu đã đưa ra quyết định) và những yếu tố nào liên quan đến quyết định này [1].
Kết quả từ nghiên cứu ghi nhận được những bệnh nhân tham gia hầu hết là nữ (91,3%), người da trắng (85,7%), đã kết hôn (86,7%), có ≥2 con (69,6%), có ít nhất bằng sau đại học (59,4%), theo đạo Thiên chúa (65,4%) và có thu nhập lớn hơn 100.000 đô la mỗi năm (81,7%). Mặc dù tất cả những người được hỏi ban đầu đều bày tỏ ý định hiến phôi của họ cho một hoặc nhiều cá nhân khác, nhưng chỉ 68,2% người tham gia đã thực sự hoàn tất việc hiến tặng, 22,3% đã hiến tặng phôi thừa của họ cho nghiên cứu hoặc đã hủy, 7,4% vẫn chưa quyết định sẽ làm gì với phôi thừa của họ và 2,1% người tham gia không đưa ra ý kiến. Khi nghĩ về việc hiến tặng cho người khác, 44,5% người tham gia cho rằng hiến tặng ẩn danh là lựa chọn lý tưởng nhất, 32,6% cho rằng hiến tặng bán công khai (semiopen donation) là lý tưởng nhất và 18,7% cho rằng hiến tặng công khai là lựa chọn lý tưởng nhất. Quyết định cuối cùng trong việc xử lý phôi đông lạnh dư thừa có liên quan đến các yếu tố tôn giáo, kết quả điều trị của cá nhân, bệnh nhân không muốn lãng phí phôi và lo ngại về chi phí lưu trữ. Quyết định này cũng có liên quan đáng kể đến mối quan tâm về phúc lợi của trẻ em được sinh ra từ phôi hiến tặng, các vấn đề tài chính hoặc pháp lý, sự liên hệ trong tương lai với trẻ sinh ra từ phôi hiến tặng, tính ẩn danh và quan hệ di truyền (p<0,001). Việc hiến tặng cho người khác có liên quan đến cảm giác ít hối tiếc hơn và bệnh nhân cảm thấy hài lòng hơn so với lựa chọn hủy phôi (p<0,001) [1].
Nghiên cứu của Rocha và cộng sự (2025) trên 187 cặp vợ chồng với một bảng câu hỏi bao gồm 5 câu trắc nghiệm và 4 câu hỏi mở liên quan đến việc đông lạnh và xử lý phôi dư thừa, bao gồm các câu hỏi đề cập đến quan điểm của họ về quyền, nghĩa vụ và cách họ giải quyết những vấn đề liên quan đến phôi đông lạnh dư thừa [2].
Kết quả cho thấy đối với sự sẵn lòng hiến tặng phôi cho các cặp vợ chồng khác, 39,01% phụ nữ và 34,07% nam giới cho biết họ sẽ cân nhắc việc hiến tặng. Ngược lại, phần lớn tỏ ra miễn cưỡng hiến tặng phôi hoặc chọn không trả lời. Không có sự khác biệt đáng kể về trình độ học vấn và tôn giáo liên quan đến quyết định hiến tặng phôi này (p>0,05). Khi được hỏi về việc hiến phôi cho mục đích nghiên cứu, chỉ có 15,38% phụ nữ và 12,08% nam giới cho biết họ sẽ cân nhắc hiến phôi đông lạnh của mình cho mục đích nghiên cứu. Phụ nữ có trình độ học vấn cao hơn có khả năng ủng hộ việc hiến tặng phôi dư thừa cho nghiên cứu cao hơn đáng kể (p<0,05), trong khi đó trình độ học vấn không ảnh hưởng đến quyết định ở nam giới. Tôn giáo không ảnh hưởng đến sự sẵn lòng hiến (hoặc không hiến) phôi dư thừa cho nghiên cứu ở cả phụ nữ và nam giới [2].
3. Tâm lý xã hội của trẻ em sinh ra từ phôi hiến tặng
Một trong những phương án trong việc giải quyết phôi đông lạnh dư thừa là hiến tặng phôi cho các cặp vợ chồng khác. Tuy nhiên, trẻ em sinh ra từ phôi hiến tặng không có mối liên hệ về di truyền với cha mẹ (những người nhận phôi hiến), do đó có nhiều lo ngại liên quan đến tâm lý xã hội của trẻ em sinh ra từ lựa chọn này. Bên cạnh đó, việc công bố nguồn gốc sinh học cho trẻ vẫn là vấn đề được cân nhắc và lo ngại ở nhiều cha mẹ.
Trong nghiên cứu của Salari và cộng sự (2024), nhóm tác giả thực hiện khảo sát trên 187 người tham gia. Những người tham gia hoàn thành 03 bảng câu hỏi. Bảng câu hỏi đầu tiên bao gồm 33 câu hỏi về nhân khẩu học, quy trình liên quan đến nhận phôi hiến và kết quả sản khoa. Những người tham gia cũng hoàn thành 02 bảng câu hỏi: Bảng câu hỏi về Điểm mạnh và Khó khăn (Strengths and Difficulties Questionnaire - SDQ) và Bảng câu hỏi về Chấp nhận - Từ chối của Cha mẹ (Parental Acceptance-Rejection Questionnaire - PARQ). Điểm số của SDQ được so sánh với các giá trị chuẩn, điểm số của PARQ được so sánh với kết quả đã công bố trước đây đối với các hình thức hiến tặng giao tử khác (noãn và tinh trùng) [3].
Kết quả: Tổng cộng có 70 người (37%) hoàn thành bảng câu hỏi PARQ. Có 43 người (22%) hoàn thành bảng câu hỏi SDQ, với độ tuổi của trẻ dao động từ 2 đến 17 tuổi. Về đặc điểm nhân khẩu học, 93% người tham gia là người da trắng; 95% đã kết hôn hoặc sống chung; 92% theo đạo Thiên Chúa giáo và 64% gia đình có thu nhập trên 100.000 đô la. Trên thang đo SDQ (n = 46), điểm tổng khó khăn trung bình theo độ tuổi là: 8,2 ± 0,98 đối với lứa tuổi 2–4 tuổi, 7,6 ± 0,93 đối với lứa tuổi 5–10 tuổi, và 3,5 ± 0,77 đối với lứa tuổi 11–17 tuổi. Kết quả này được so sánh với khoảng giá trị bình thường được báo cáo là 0–13, điều này cho thấy ít có khả năng xảy ra các vấn đề tâm lý xã hội có ý nghĩa lâm sàng. Ở tất cả các nhóm tuổi và các đánh giá riêng lẻ (cảm xúc, vấn đề hành vi, tăng động, vấn đề quan hệ bạn bè, hành vi xã hội), điểm số trên SDQ đều nằm trong giới hạn bình thường. Điểm PARQ trung bình cho tất cả những người được hỏi (n = 70) là 27,5 ± 1,18 (phạm vi: 24–96), điều này cho thấy mức độ chấp nhận của cha mẹ được cảm nhận là cao [3]. Tổng cộng có 167 trên 187 người tham gia (89%) đã hoàn thành các câu hỏi liên quan đến việc công khai thông tin về nguồn gốc với trẻ. Trong số những người phản hồi, 98% (n = 164) báo cáo rằng họ đã hoặc đang có kế hoạch công khai với con cái về nguồn gốc sinh học của chúng [3].
Nghiên cứu của Kaveh và cộng sự (2025) đánh giá tâm lý của 31 trẻ em từ 3 - 7 tuổi được sinh ra thông qua hiến tặng phôi và so sánh kết quả với 30 trẻ em cùng độ tuổi từ các gia đình thụ thai tự nhiên (nhóm đối chứng) dựa trên công cụ là SDQ. Phong cách nuôi dạy con cái trong các gia đình này cũng được đánh giá bằng Bảng kiểm kê phong cách nuôi dạy con cái của Baumrind (Baumrind Parenting Styles Inventory) thông qua phỏng vấn [4].
Kết quả: Điểm trung bình của SDQ ở nhóm trẻ sinh ra từ phôi hiến tặng (11,84 ± 5,41) hơi cao hơn so với nhóm thụ thai tự nhiên (10,13 ± 5,07), nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p=0,412). Không có sự khác biệt đáng kể về tỷ lệ hiện mắc các vấn đề cảm xúc (p=0,221), vấn đề hành vi (p=0,490), tăng động (p=0,241), vấn đề quan hệ bạn bè (p=0,163) giữa hai nhóm trẻ được sinh ra từ phôi hiến tặng và trẻ thụ thai tự nhiên. Không có sự khác biệt đáng kể về phong cách nuôi dạy con cái giữa hai nhóm (giá trị p cho các phong cách nuôi dạy con cái bao dung, độc đoán và có thẩm quyền (có kiểm soát và hỗ trợ) lần lượt là 0,424, 0,656 và 0,219) [4]. Về việc công khai nguồn gốc sinh học của trẻ: không có gia đình nào trong số 18 gia đình thuộc nhóm trẻ sinh ra từ phôi hiến tặng đã từng công khai nguồn gốc sinh học cho con cái họ trước đây. Khi được hỏi về kế hoạch thông báo cho con cái trong tương lai, 5 gia đình (27,7%) bày tỏ sự sẵn lòng làm điều đó, 10 gia đình (55,5%) có ý định không thông báo cho con, và 3 gia đình (16,6%) vẫn chưa đưa ra quyết định [4].
4. Kết luận
Các kết quả từ những nghiên cứu trên ghi nhận hướng xử lý phôi đông lạnh sau khi bệnh nhân đã điều trị thành công có liên quan đến các yếu tố tâm lý, cảm xúc, tôn giáo, trình độ học vấn, chi phí lưu trữ, phúc lợi của trẻ em. Đối với lựa chọn hiến tặng phôi cho các cặp vợ chồng khác, các vấn đề liên quan đến pháp lý, di truyền, danh tính của người hiến và mối quan hệ của người nhận với trẻ em được sinh ra từ phôi hiến cũng là yếu tố được quan tâm. Dù vậy, việc thiếu mối quan hệ di truyền giữa cha mẹ và con cái không ảnh hưởng đáng kể đến tâm lý của trẻ được sinh ra từ phôi hiến tặng. Bên cạnh đó, một điểm quan trọng khác cần xem xét cho các nghiên cứu trong tương lai là thái độ của trẻ sinh ra từ phôi hiến tặng sau khi biết về nguồn gốc sinh học của bản thân, vẫn chưa rõ liệu yếu tố này có tác động đến sức khỏe tâm lý của trẻ hay không. Những kết quả từ các nghiên cứu trên là nền tảng cho việc cung cấp thông tin, hỗ trợ và đồng hành cùng bệnh nhân trong việc đưa ra hướng giải quyết phôi dư thừa tại các trung tâm hỗ trợ sinh sản.
Tài liệu tham khảo
[1] Barishansky SJ, Devine K, O’Brien JE, Rothwell E & Lawson AK. One size does not fit all: the personal nature of completed embryo donation. Journal of assisted reproduction and genetics. 2024; 41(7):1793-1806.
[2] de Araujo Rocha JPM, Verruma CG, Morato ALC, Picinato MC, Ferriani RA, Dos Reis RM. Embryo Cryopreservation: What do couples think about it?. JBRA Assisted Reproduction. 2025; 29(1):94.
[3] Salari S, Lee S, Mangels J, Flyckt R, Madeira J, Gordon J. Psychosocial outcomes of children born via embryo donation. Human Reproduction. 2024; 39(4):779-783.
[4] Kaveh M, Hosseini SH, Sharif-Nia H, Peivandi S. The impact of embryo donation technology on child psychological adjustment and parenting styles: a historical cohort study. International Journal of Fertility & Sterility. 2025; 19(1):96.










Hội Nội tiết Sinh sản và Vô sinh TP. Hồ Chí Minh (HOSREM) sẽ ...
Khách sạn Equatorial, chủ nhật ngày 23 . 11 . 2025
Ngày 9 - 10 . 8 . 2025, Vinpearl Landmark 81 (Số 720A Điện BIên Phủ, ...

Y học sinh sản được phát ngày ngày 21 . 9 . 2025 và gởi đến ...

Cẩm nang Hội chứng buồng trứng đa nang được phát hành online ...

Mời quý đồng nghiệp đón đọc bản Online của Y học sinh sản ...